
Trong đó nhập khẩu từ Australia đạt 7,59 triệu tấn, tương đương gần 958,16 triệu USD, chiếm 31% trong tổng khối lượng và chiếm 38% trong tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 36,4% cả về khối lượng nhưng giảm 2,7% kim ngạch. Giá nhập từ Australia giảm 28,7%.
Thị trường lớn thứ 2 cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam là Indonesia đạt 9,89 triệu tấn, đạt gần 805,5 triệu USD, chiếm 31,9% trong tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 24,2% về lượng, tăng 8,2% về kim ngạch.
Nhập khẩu than đá từ Nga chiếm 8,6% trong tổng khối lượng và chiếm 11,4% trong tổng kim ngạch, đạt 2,09 triệu tấn, trị giá 287 triệu USD, tăng 5,9% về lượng, giảm 26,7% về kim ngạch, giá than nhập khẩu từ Nga cũng giảm 30,7%,
Sở dĩ nhập khẩu than tăng mạnh sau mỗi năm là do nhu cầu tiêu dùng với mặt hàng này tăng đối với nhiều ngành sản xuất, nhiều nhất là nhiệt điện, xi măng… Đặc biệt, do sản lượng điện than sẽ huy động ở mức cao trong mùa khô nên dự báo lượng than nhập khẩu còn tiếp tục tăng.
Theo số liệu thống kê của ngành Hải quan, nhập khẩu than đá của Việt Nam đã có sự tăng mạnh kể từ năm 2021 trở lại đây.
Cụ thể, năm 2021, nhập khẩu than đá là 36,379 triệu tấn với trị giá 4,47 tỷ USD. Năm 2022, cả nước nhập khẩu 31,7 triệu tấn than các loại với trị giá 7,12 tỷ USD. Năm 2023, nhập khẩu mặt hàng than đá cũng tăng vọt lên 51,1 triệu tấn với trị giá 7,1 tỷ USD.
Năm 2024, nhập khẩu than đá 63,824 triệu tấn với trị giá 7,63 tỷ USD.
Việt Nam chi 2,52 tỷ USD nhập khẩu than đá trong 4 tháng đầu năm 2025.
Nguồn: baodautu.vn